
Bà Đặng Huỳnh Ức My, chủ tịch HĐQT TTC AgriS, chia sẻ tại hội thảo - Ảnh: QUANG ĐỊNH
Trong bối cảnh 72% người tiêu dùng sẵn sàng trả thêm tiền cho sản phẩm thân thiện với môi trường, nhưng vẫn chịu ảnh hưởng bởi yếu tố giá, doanh nghiệp cần có chiến lược dài hạn để cân bằng giữa chi phí và giá trị bền vững.
Các chuyên gia, doanh nghiệp gửi thông điệp như vậy tại hội thảo
Ông Võ Đình Trung - phó tổng giám đốc Trung tâm cải tiến, đổi mới và bền vững - đại diện SCGP, ngành bao bì Tập đoàn SCG - Ảnh: QUANG ĐỊNH
Ông Võ Đình Trung - phó tổng giám đốc Trung tâm cải tiến, đổi mới và bền vững - đại diện SCGP, ngành bao bì Tập đoàn SCG - cho biết ngành kinh doanh bao bì của Tập đoàn SCG đã cam kết tăng trưởng và phát triển bền vững thông qua chiến lược ESG 4+, phát triển xanh, giảm bất bình đẳng, thúc đẩy hợp tác và công khai minh bạch hoạt động.
Với hơn 30 năm kinh nghiệm trong ngành bao bì, SCG đã triển khai nhiều giải pháp thực tiễn từ nội bộ nhà máy đến chuỗi cung ứng bên ngoài. Một trong những sáng kiến đáng chú ý là sử dụng nhiên liệu sinh khối, giúp tiết kiệm 30-40% tổng nhiên liệu tiêu thụ. Ngoài ra, SCG cũng đầu tư mạnh vào năng lượng tái tạo.
Năm 2021, một nhà máy của SCG lắp đặt hệ thống điện mặt trời áp mái, giúp giảm khoảng 9.300 tấn CO2/năm và tiết kiệm 13 triệu kWh điện/năm. Năm 2023, nhà máy ở Bình Dương cũng lắp đặt điện áp mái, giúp giảm 2.700 triệu kWh điện/năm, tương đương phát triển 35.900 cây xanh trong 10 năm.
Bên cạnh đó, SCG tối ưu hóa vận hành bằng cách sử dụng máy thủy lực, hệ thống chiếu sáng bằng năng lượng mặt trời và nghiên cứu và phát triển công nghệ sản xuất giúp giảm nhựa sử dụng, điển hình như việc sản xuất nắp chai nước suối chỉ còn 1,7g.
Dù vậy, doanh nghiệp vẫn đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt là chi phí nguyên liệu tái chế. "Giá thành nguyên liệu là một thách thức lớn. Hiện tại, nguyên liệu tái chế có thể cao hơn 20-30% so với nguyên liệu thông thường. Nhiều lúc, chúng tôi phải nhập khẩu từ Đài Loan để sản xuất. Ở Việt Nam, doanh nghiệp cũng gặp khó khăn trong quá trình thu gom, xử lý nguyên liệu tái chế", ông Võ Đình Trung chia sẻ.
Bà Trần Thị Út - giảng viên Đại học Hoa Sen - cũng cho rằng mức độ chấp nhận của thị trường đang phụ thuộc rất nhiều vào giá.
Theo bà Út, xu hướng tiêu dùng xanh đặt ra bài toán cho nhà sản xuất: làm thế nào để giúp người tiêu dùng thấy rõ tính "xanh" trong sản phẩm, từ đó thúc đẩy hành động thực tế. Một trong những giải pháp quan trọng là ứng dụng công nghệ. Không chỉ giúp minh bạch hóa thông tin sản phẩm, công nghệ còn có thể giúp giảm chi phí đầu vào, từ đó tạo ra các sản phẩm xanh với mức giá cạnh tranh hơn.
Dù vậy, điểm sáng là thị trường đã có sự dịch chuyển. Ý thức và nhận thức đã hình thành, nhưng để biến thành hành động cần sự nỗ lực không chỉ từ người tiêu dùng mà còn từ nhà sản xuất. Công nghệ chính là chìa khóa giúp rút ngắn khoảng cách này, tạo điều kiện để sản phẩm xanh tiếp cận thị trường rộng rãi hơn.

PGS.TS Trần Thị Út, giảng viên Đại học Hoa Sen, nêu ý kiến tại hội thảo - Ảnh: QUANG ĐỊNH
Đồng tình quan điểm này, TS Dương Văn Thịnh - cố vấn Cộng đồng lãnh đạo xanh (GLC), giảng viên khoa hệ thống thông tin Trường đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP.HCM - cho biết hiện nay dù nhiều nhà máy đã có lộ trình xanh rõ ràng, nhưng thời gian thực hiện thường kéo dài từ 15 đến 20 năm, thậm chí nhanh nhất cũng cần 5 đến 10 năm.
Thách thức lớn nhất hiện nay là khoảng cách giữa nhận thức và hành động. Người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến sản phẩm xanh, doanh nghiệp cũng có ý thức chuyển đổi, nhưng vẫn tồn tại rào cản về chi phí đầu vào và giá thành sản phẩm.
Công nghệ được xem là yếu tố then chốt để rút ngắn khoảng cách này, giúp minh bạch hóa chuỗi cung ứng, tối ưu hóa quy trình sản xuất và giảm chi phí, từ đó thúc đẩy hành động thực tế trong việc tiêu dùng và sản xuất bền vững.
Người dùng rất sẵn sàng cho tiêu dùng xanh

Khách hàng tìm hiểu sản phẩm thân thiện với môi trường như xà bông sinh dược, móc được tái chế… - Ảnh: BẢO TRÂN
Ông Huỳnh Thanh Tuấn - giám đốc quản lý chất lượng, Liên hiệp Hợp tác xã thương mại TP.HCM (Saigon Co.op) - khẳng định về xu hướng mua sắm tại hệ thống này.
Ông Tuấn nói: "Với hơn 35 năm hoạt động trong lĩnh vực bán lẻ, chuỗi siêu thị đã triển khai nhiều chương trình cụ thể các chiến dịch tiêu dùng xanh và nhận thấy xu hướng tiêu dùng bền vững ngày càng rõ nét".
Theo ông Tuấn, qua nhiều chiến dịch và chương trình, doanh nghiệp nhận thấy người tiêu dùng đã có nhận thức đúng đắn hơn về sản phẩm xanh và ưu tiên lựa chọn các sản phẩm thân thiện với môi trường. Bên cạnh đó, Saigon Co.op cũng đồng thời triển khai các chương trình riêng nhằm giúp nhà cung cấp nâng cao nhận thức và kiến thức về sản xuất bền vững.
Về đo lường khả năng chi trả của người tiêu dùng, Saigon Co.op đã tiến hành nghiên cứu và khảo sát cho thấy khi người tiêu dùng chấp nhận chi trả cao hơn cho sản phẩm xanh, họ có xu hướng chọn doanh nghiệp và điểm bán uy tín, nơi có quá trình kiểm soát nghiêm ngặt.
Tuy nhiên, vẫn tồn tại trường hợp khách hàng nghi ngờ tính minh bạch của sản phẩm, không chỉ với hàng hóa xanh mà còn nhiều sản phẩm khác. Điều này đặt ra yêu cầu cho các nhà phân phối phải có giải pháp phù hợp để củng cố niềm tin của người tiêu dùng. "Các đơn vị phân phối phải truyền thông rõ ràng về quy trình kiểm soát chất lượng sản phẩm, giúp khách hàng hiểu và yên tâm hơn khi lựa chọn mua sắm sản phẩm", ông Huỳnh Thanh Tuấn nói.

Ông Huỳnh Thanh Tuấn - giám đốc quản lý chất lượng Saigon Co.op - Ảnh: QUANG ĐỊNH
Phân loại rác tại nguồn: còn khoảng cách giữa nhận thức và hành động
Ông Vũ Văn Huy Hoàng - giám đốc khối chiến lược và chuyển đổi số Vinasoy - cho rằng nhựa vẫn tồn tại vì giá trị sử dụng mà nó mang lại. Vấn đề không nằm ở việc loại bỏ hoàn toàn nhựa mà là cách sử dụng có trách nhiệm và phân loại, xử lý đúng cách.
"Với sự bùng nổ thương mại điện tử, lượng bao bì nhựa và ni lông sử dụng trong giao hàng ngày càng lớn, đặt ra thách thức về truyền thông nâng cao nhận thức, thu gom và tái chế", ông Hoàng nêu vấn đề.
Theo bà Chu Thị Kim Thanh - giám đốc vận hành Công ty cổ phần tái chế bao bì PRO Việt Nam, nhựa vẫn là một phần thiết yếu của cuộc sống hiện đại. Do đó, thay vì loại bỏ, điều quan trọng là quản lý tốt, đặc biệt là phân loại rác tại nguồn. Bà nhấn mạnh vai trò của truyền thông trong việc nâng cao nhận thức của cộng đồng về vấn đề này.
Các chuyên gia, doanh nghiệp cùng chính thức khởi động thúc đẩy tiêu dùng xanh sau hội thảo - Ảnh: QUANG ĐỊNH
Công nghệ giúp kiểm soát hàng xanh "thật" và xanh "giả"
TS Dương Văn Thịnh - cố vấn Cộng đồng lãnh đạo xanh (GLC), giảng viên khoa hệ thống thông tin Trường đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP.HCM - cho hay châu Âu hiện đang khuyến khích mạnh mẽ việc sử dụng sản phẩm xanh. Tuy nhiên, khi các cơ quan chức năng vào cuộc kiểm tra, có tới 2/3 nhãn mác không trung thực đến từ khu vực châu Á.
Theo ông Thịnh, tại châu Âu, tính minh bạch trong việc áp dụng công nghệ vào sản xuất rất cao. Công nghệ được triển khai triệt để từ khâu sản xuất đến phân phối, giúp kiểm chứng và phát hiện chính xác sản phẩm có nhãn mác trung thực hay không đạt chuẩn.
"Dữ liệu thực tế năm 2023 cũng cho thấy xu hướng tiêu dùng sản phẩm xanh ngày càng gia tăng. Điều này khẳng định vai trò quan trọng của công nghệ trong việc kiểm soát, minh bạch hóa và nâng cao tiêu chuẩn của sản phẩm xanh", ông Thịnh nhấn mạnh.
Ông Lê Anh, giám đốc phát triển bền vững Công ty cổ phần nhựa tái chế Duy Tân (Duy Tân Recycling - DTR):
Việt Nam đã "đi lùi" 3 bậc về quốc gia xả rác nhựa nhiều nhất thế giới

Ông Lê Anh - giám đốc phát triển bền vững Duy Tân Recycling - Ảnh: QUANG ĐỊNH
Doanh nghiệp bắt đầu hoạt động từ năm 2019, thời điểm mà khái niệm về phát triển xanh và kinh tế bền vững còn khá mới mẻ tại Việt Nam. Khi đó, thị trường chưa thực sự đón nhận nhựa tái chế, khiến các sản phẩm này gần như không tiêu thụ được trong nước.
Tuy nhiên vài năm trở lại đây, thị trường đã có sự chuyển biến tích cực. Ngày càng nhiều sản phẩm chai nhựa tái sinh xuất hiện trên kệ siêu thị, phản ánh sự thay đổi trong nhận thức và hành vi tiêu dùng. Đặc biệt, các doanh nghiệp trong ngành hàng tiêu dùng nhanh (FMCG) đang đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sử dụng nhựa tái chế.
Không chỉ ghi nhận sự thay đổi từ thị trường, Duy Tân Recycling còn đạt được những bước tiến lớn trong sản xuất. Hiện mỗi ngày, công ty thu gom và tái chế khoảng 200 tấn nhựa, tương đương 15 triệu chai nhựa. Nếu xếp nối các chai này, tổng chiều dài có thể đạt 965km, tương đương quãng đường từ TP.HCM đến Huế.
Bên cạnh nỗ lực từ phía doanh nghiệp, các chính sách của Chính phủ cũng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của ngành tái chế. Việt Nam đã bắt đầu áp dụng quy định về Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR), yêu cầu doanh nghiệp phải đạt tỉ lệ thu gom và tái chế nhất định đối với bao bì nhựa. Đây được xem là động lực lớn để ngành tái chế phát triển mạnh mẽ hơn.
Việc thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn không chỉ mang lại lợi ích cho doanh nghiệp mà còn giúp cải thiện tình trạng ô nhiễm rác thải nhựa. Nếu trước đây, Việt Nam nằm trong nhóm 5 quốc gia xả rác nhựa nhiều nhất thế giới, thì nay đã "đi lùi" xuống vị trí thứ 8. Dù vậy, vẫn còn nhiều thách thức cần giải quyết để quản lý nhựa hiệu quả hơn.
Bà Nguyễn Phạm Kim Ngân, đại diện Nepa Cooperation Institute:
Phát triển xanh cần cam kết dài hạn

Bà Nguyễn Phạm Kim Ngân, đại diện Nepa Cooperation Institute - Ảnh: QUANG ĐỊNH
Tại nhiều quốc gia trên thế giới, các quy định về phát triển bền vững ngày càng khắt khe, với sự tham gia và hành động không chỉ từ Chính phủ mà còn từ cộng đồng doanh nghiệp, giới khoa học.
Tuy nhiên, lộ trình phát triển xanh tại Việt Nam vẫn đối mặt với những thách thức lớn, đặc biệt là sự thiếu hụt nguồn lực đầu tư.
Điều này đòi hỏi lãnh đạo doanh nghiệp phải cam kết mạnh mẽ, xây dựng lộ trình rõ ràng, đồng thời công khai thông tin và dữ liệu minh bạch để củng cố uy tín.
Hội thảo "Sản phẩm, dịch vụ xanh - đặt hàng từ người dùng" do báo Tuổi Trẻ phối hợp cùng Liên minh Tái chế bao bì Việt Nam (PRO VN), Hội liên hiệp Thanh niên TP.HCM và các đơn vị đồng hành tổ chức tại khách sạn Majestic (TP.HCM).

