
Người dân làm thủ tục hành chính ở TP Thủ Đức, TP.HCM - Ảnh: QUANG ĐỊNH
Tác động lên sự biến động này không chỉ là ý chí chính trị, mà còn là căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội và điều kiện vật chất, kỹ thuật.
Thời Nguyễn (1831-1832) cả nước có 30 tỉnh và 1 phủ Thừa Thiên sau cải cách Minh Mạng. Đến thời Pháp thuộc (1858-1945) số tỉnh tăng mạnh do chia tách, đến năm 1945 có 69 tỉnh/thành.
Giai đoạn 1945-1975, miền Bắc giảm số tỉnh do sáp nhập, còn 25 đơn vị vào năm 1965, trong khi miền Nam tăng số tỉnh, đến 1975 có 44 tỉnh và đô thành Sài Gòn. Sau thống nhất (1976), hàng loạt tỉnh bị sáp nhập, giảm xuống còn 38 đơn vị.
Từ 1986, các tỉnh dần được tách ra, đến năm 2008 Việt Nam ổn định với 63 đơn vị hành chính cấp tỉnh (58 tỉnh và 5 thành phố trực thuộc trung ương) và duy trì đến nay.
Ngày nay, thời đại số tạo ra cơ hội rất lớn để tinh gọn bộ máy nhờ vào sự phát triển mạnh mẽ của chính phủ điện tử, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo (AI) và hạ tầng giao thông hiện đại.
Trước đây việc duy trì nhiều tỉnh là cần thiết do hạn chế về giao thông, quản lý và khả năng cung cấp dịch vụ hành chính.
Tuy nhiên với sự xuất hiện của dịch vụ công trực tuyến, chữ ký số, hợp đồng điện tử và hệ thống dữ liệu tập trung, việc thực hiện các thủ tục hành chính không còn phụ thuộc vào khoảng cách địa lý hay sự hiện diện của bộ máy hành chính tại mỗi tỉnh.
Chính phủ điện tử cho phép người dân và doanh nghiệp thực hiện gần như mọi giao dịch hành chính qua mạng thay vì phải đến trực tiếp các cơ quan nhà nước, giúp giảm đáng kể nhu cầu duy trì một hệ thống hành chính cồng kềnh ở cấp tỉnh.
Bên cạnh đó các hệ thống dữ liệu dân cư và quản trị số giúp quản lý thông tin dân số, doanh nghiệp và các lĩnh vực kinh tế - xã hội một cách tập trung và hiệu quả hơn, không cần phải chia nhỏ đơn vị hành chính để dễ kiểm soát như trước đây.
Việc ứng dụng AI và phân tích dữ liệu lớn giúp chính quyền có thể giám sát, dự báo và điều phối các chính sách ở phạm vi rộng mà không cần quá nhiều cấp trung gian.
Điều này có nghĩa là ngay cả khi số lượng tỉnh giảm, năng lực quản lý nhà nước vẫn không bị ảnh hưởng mà thậm chí còn được nâng cao nhờ công nghệ hiện đại.
Hơn nữa sự phát triển của hạ tầng giao thông hiện đại như mạng lưới đường cao tốc, sân bay và sắp tới là đường sắt tốc độ cao đang rút ngắn đáng kể khoảng cách giữa các địa phương, khiến việc di chuyển giữa các trung tâm hành chính trở nên dễ dàng hơn.
Trong bối cảnh này, việc duy trì quá nhiều tỉnh chỉ làm tăng gánh nặng bộ máy hành chính mà không còn phù hợp với điều kiện thực tế.
Việc sáp nhập các tỉnh còn mang lại lợi ích to lớn về mặt tài chính và nguồn lực. Hiện nay mỗi tỉnh đều có bộ máy hành chính riêng với UBND, HĐND, sở, ban, ngành…, tiêu tốn ngân sách lớn cho lương cán bộ, cơ sở vật chất và chi phí vận hành.
Nếu giảm số lượng tỉnh, ngân sách tiết kiệm được có thể tái đầu tư vào hạ tầng, phát triển đô thị, cải cách hành chính, giúp người dân và doanh nghiệp tiếp cận dịch vụ thuận lợi hơn mà không cần bộ máy hành chính cồng kềnh như trước.
Một so sánh với quốc tế cho thấy Việt Nam có quá nhiều tỉnh so với quy mô dân số và diện tích.
Chẳng hạn Trung Quốc với diện tích lớn gấp gần 30 lần Việt Nam nhưng chỉ có 34 đơn vị cấp tỉnh; Nhật Bản có 47 tỉnh với dân số hơn 120 triệu người; Đức có 16 bang mặc dù có nền kinh tế lớn hơn Việt Nam nhiều lần.
Điều này cho thấy việc duy trì 63 đơn vị hành chính cấp tỉnh như hiện nay là chưa hợp lý, đặc biệt khi công nghệ số cho phép quản lý hiệu quả với ít đầu mối hơn.
Nhờ những lợi thế của thời đại số, việc giảm số lượng tỉnh không chỉ khả thi mà còn mang lại lợi ích lớn về hiệu quả quản lý, tối ưu hóa nguồn lực và tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn.
Chính phủ hoàn toàn có thể vận hành bộ máy hành chính tinh gọn hơn nhờ vào các nền tảng số, dữ liệu tập trung và AI, giúp duy trì sự kết nối giữa chính quyền với người dân và doanh nghiệp một cách nhanh chóng, chính xác.
Nếu không tận dụng cơ hội này, Việt Nam sẽ lãng phí tiềm năng số hóa và tiếp tục duy trì một bộ máy hành chính cồng kềnh, tốn kém, gây trở ngại cho sự phát triển cả trước mắt và trong dài hạn.
